Mã Tín Dụng Xã Hội

Mã Tín Dụng Xã Hội

Bước 1: Truy cập vào website Cổng thông tin Bảo hiểm xã hội Việt Nam, nhấn chọn Tra cứu trực tuyến.

Bước 1: Truy cập vào website Cổng thông tin Bảo hiểm xã hội Việt Nam, nhấn chọn Tra cứu trực tuyến.

Hướng dẫn tra cứu mã số bảo hiểm xã hội trên ứng dụng VssID

Với ứng dụng VssID, cá nhân cần phải có mã số BHXH của mình để thực hiện đăng nhập hệ thống. Do đó, khi thực hiện tra cứu mã số BHXH trên VssID chính là tra cứu mã số BHXH cho người khác chứ không phải cho cá nhân đó.

Bước 1: Tiến hành đăng nhập vào ứng dụng VssID bằng cách điền tên đăng nhập là mã BHXH và mật khẩu.

Bước 2: Nhấn chọn “Tra cứu” để màn hình chuyển sang giao diện Tra cứu trực tuyến.

Bước 3: Tại giao diện Tra cứu trực tuyến, nhấn chọn ”Tra cứu mã số BHXH”.

Bước 4: Điền các thông tin do hệ thống yêu cầu và nhấn chọn “Tìm kiếm” để nhận kết quả tra cứu.

(VBSP News) Là tỉnh có diện tích đứng thứ 5 cả nước, Thanh Hóa thuộc khu vực Bắc Trung Bộ với đầy đủ các loại địa hình, các loại sinh thái. Trong những năm qua, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, NHCSXH tỉnh Thanh Hóa được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm, tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện đồng bộ, kịp thời.Đến nay NHCSXH tỉnh đang thực hiện 19 chương trình tín dụng với tổng dư nợ đạt trên 8.290 tỷ đồng với 275 nghìn hộ vay vốn.Nguồn vốn tín dụng chính sách trong 16 năm qua đã làm chuyển biến nhận thức, cách thức làm ăn cho các hộ vay, giúp 806 ngàn hộ nghèo được vay vốn đầu tư vào SXKD, tăng thu nhập, từng bước quen dần với cơ chế thị trường; góp phần đưa gần 260 ngàn lượt hộ vượt qua ngưỡng nghèo nhờ vay vốn tín dụng chính sách. Đồng thời còn tạo việc làm cho gần 351 ngàn lao động, giúp cho gần 340 ngàn HSSV được vay vốn; xây dựng được gần 220 ngàn công trình cung cấp nước sạch và xây nhà vệ sinh hợp chuẩn,… Phóng viên HÀ GIANG xin gửi tới quý vị và các bạn một số hình ảnh vừa được thực hiện tại Thanh Hóa gửi về.

Báo cáo do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Hà Minh Hải trình bày cho thấy, ngay sau khi Chỉ thị số 40-CT/TW được ban hành, Thành ủy đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng, tổ chức, đơn vị kịp thời triển khai quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc.

Hiện nay, thành phố đang quản lý và triển khai thực hiện cho vay 19 chương trình tín dụng chính sách; doanh số cho vay 10 năm giai đoạn 2015 đến ngày 30/4/2024 là 38.759 tỷ đồng với 1.031.013 hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn, doanh số thu nợ đạt 28.078 tỷ đồng.

Tổng dư nợ 19 chương trình tín dụng đến ngày 30/4/2024 đạt 15.397 tỷ đồng với 272.412 khách hàng đang vay vốn, tăng 10.676 tỷ đồng so với đầu năm 2014.

Cùng với nguồn vốn cân đối từ Trung ương, hằng năm Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp đã quan tâm bố trí ngân sách chuyển vốn ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội để bổ sung nguồn vốn cho vay, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Đến ngày 30/4/2024, tổng nguồn vốn hoạt động tại Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố đạt 15.452 tỷ đồng, tăng 10.715 tỷ đồng (bằng 226% so với năm 2014).

Trong đó, nguồn vốn địa phương ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội là 8.713 tỷ đồng, tăng 7.616 tỷ đồng (694%) so với năm 2014, chiếm tỷ trọng 56% trên tổng nguồn vốn cho vay.

Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Thị Tuyến, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị số 40, góp phần triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của thành phố về giảm nghèo nhanh và bền vững, tạo việc làm, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội và đẩy lùi tín dụng đen, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn thành phố.

Đồng chí đề nghị thời gian tới, các cấp ủy Đảng, chính quyền tiếp tục tổ chức quán triệt, tuyên truyền sâu rộng nội dung Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư, chủ trương của thành phố về tín dụng chính sách xã hội, góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của tín dụng chính sách xã hội đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Thủ đô.

Đồng chí cũng đề nghị tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, nhất là công tác kiểm tra của Ban đại diện hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội các cấp, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, của các tổ chức chính trị-xã hội… để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện cũng như nắm bắt, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.

Các cấp, các ngành, các tổ chức và đơn vị có liên quan chủ động xây dựng chương trình, dự án, gắn kết giữa đầu tư các mô hình kinh tế với việc triển khai tín dụng chính sách xã hội và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa; đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo nghề để người nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Thời gian qua, từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, nhiều đoàn viên, thanh niên trên địa bàn tỉnh đã có thêm nguồn lực để khởi nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Đắk Lắk hiện có 494.537 thanh niên (chiếm khoảng 25,8% dân số toàn tỉnh), trong đó có 78.853 đoàn viên đang sinh hoạt. Các cấp bộ đoàn trên địa bàn tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm.

Là đơn vị nhận ủy thác, tổ chức đoàn thanh niên đã phát huy vai trò "cầu nối" đưa vốn tín dụng chính sách xã hội  (CSXH) đến với thanh niên. Theo đó, hằng năm, đoàn thanh niên tiến hành rà soát, thẩm định, bình chọn đúng đối tượng, trong đó ưu tiên đoàn viên, thanh niên có ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo vay vốn; tập trung tổ chức tập huấn, lồng ghép kiến thức về khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho thanh niên để phát triển mô hình kinh tế hiệu quả, bền vững. Đồng thời, kiểm tra, giám sát, hướng dẫn sử dụng vốn đúng mục đích; các tổ tiết kiệm và vay vốn đôn đốc những trường hợp vay vốn trả lãi và gốc theo định kỳ.

Những năm qua, Đoàn xã Ea M'droh (huyện Cư M’gar) luôn chủ động phối hợp với Phòng giao dịch Ngân hàng CSXH huyện triển khai thực hiện ủy thác cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác. Từ các nội dung ký kết với Ngân hàng CSXH huyện, Đoàn xã Ea M'droh thường xuyên triển khai đầy đủ, kịp thời các chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến đối tượng thụ hưởng; hướng dẫn tổ tiết kiệm và vay vốn và các thành viên về thủ tục vay vốn. Hiện nay, Đoàn Thanh niên xã Ea M'droh đang quản lý dư nợ hơn 8 tỷ đồng, với 192 hộ vay. Những hộ được tiếp nhận vốn vay đã tích cực phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhằm thoát nghèo bền vững.

Trước đây, gia đình anh Tằng Văn Hếnh (thôn Đồng Giao, xã Ea M'droh) thuộc diện hộ nghèo do đất sản xuất ít, công việc không ổn định. Thông qua các buổi họp thôn, anh biết đến nguồn vốn vay hộ nghèo của Ngân hàng CSXH huyện. Năm 2015, anh Hếnh đã mạnh dạn vay 30 triệu đồng để phát triển kinh tế. Lần lượt các năm 2018 và 2023, anh tiếp tục vay thêm 40 triệu đồng và 50 triệu đồng mua đất, đầu tư trồng mới cà phê. Từ nguồn vốn vay ưu đãi, vườn cà phê của gia đình anh được chăm sóc đúng kỹ thuật, đủ phân bón, nước tưới nên cho năng suất, thu nhập cao, giúp anh vươn lên thoát nghèo.

Cũng được hưởng lợi từ vốn ủy thác qua đoàn thanh niên là anh Y Âu Hđơk (buôn Năc, xã Ea Bông, huyện Krông Ana). Thông qua các buổi sinh hoạt, anh được Đoàn xã Ea Bông tư vấn, hỗ trợ tiếp cận các chương trình cho vay của Ngân hàng CSXH. Năm 2023, gia đình anh vay 30 triệu đồng để chăn nuôi bò sinh sản. Từ 2 con bò mẹ ban đầu, đến nay đàn bò của gia đình anh có 4 con, trong đó có 3 con chuẩn bị sinh sản. Anh Y Âu cho biết, mỗi con bê bán được khoảng 5 triệu đồng, với đà này thì chỉ năm sau là trả hết khoản vay 30 triệu đồng của ngân hàng, cuộc sống sẽ đỡ vất vả hơn nhiều. Anh dự kiến tiếp tục vay vốn ưu đãi để phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu.

Thời gian qua, các cấp bộ đoàn đã phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng CSXH triển khai thực hiện tốt những nội dung ủy thác, thực hiện giải ngân nhanh chóng, đúng đối tượng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đến nay, tổng dư nợ do đoàn thanh niên quản lý đạt gần 1.455 tỷ đồng, với 32.168 hộ vay vốn (tăng 121 tỷ đồng so với cuối 2023). Toàn tỉnh hiện có 771 tổ tiết kiệm và vay vốn thanh niên, trong đó có 754 tổ xếp loại tốt (chiếm tỷ lệ 97,8%), 12 tổ khá, 5 tổ trung bình và không có tổ loại yếu. Từ nguồn vốn tín dụng CSXH đã có nhiều thanh niên phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nhân rộng các mô hình làm ăn hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lực lượng đoàn viên, thanh niên tại địa phương.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã nhận định: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(1). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, đây là chủ trương nhất quán trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã quyết định thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo - Ngân hàng Chính sách xã hội - để thực hiện tín dụng chính sách xã hội cho phát triển sản xuất, tạo sinh kế, việc làm và đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Tín dụng chính sách xã hội đã phát huy vai trò to lớn trong việc vừa thúc đẩy kinh tế phát triển, vừa giữ vững định hướng XHCN của việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Điều này thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, tín dụng chính sách xã hội là một công cụ, giải pháp quan trọng của Đảng, Nhà nước thực hiện giảm nghèo bền vững

Thực tế cho thấy, hộ nghèo, cận nghèo được tiếp cận tín dụng chính sách xã hội ngày càng nhiều hơn, dư nợ bình quân trên hộ cũng tăng lên, số dư nợ để sản xuất kinh doanh, học nghề, xuất khẩu lao động cũng tăng hơn. Chính sự hỗ trợ kịp thời của tín dụng chính sách xã hội đã tạo điều kiện cho những người nghèo, hộ nghèo, hộ chính sách xã hội tạo sinh kế, việc làm, ổn định đời sống, giảm nghèo thực chất.

Ngoài ra, tín dụng chính sách xã hội còn tạo điều kiện giúp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo mới; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia. Đồng thời, tín dụng chính sách xã hội giúp hộ nghèo và các đối tượng chính sách tăng khả năng tích lũy tài sản, chống chịu được trước những cú sốc kinh tế; tạo niềm tin thúc đẩy nhu cầu đầu tư, kinh doanh, cải thiện năng suất lao động tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trong 10 năm từ 2011 - 2020, “đã có trên 21,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn, với doanh số cho vay các chương trình tín dụng chính sách đạt 509.020 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi đã phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, góp phần giúp trên 3,7 triệu lượt hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho hơn 2 triệu lao động từ Quỹ Quốc gia về việc làm; giúp 1,5 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập”(3).

Cùng với những công cụ khác, tín dụng chính sách xã hội là công cụ thiết thực, hiệu quả để giảm nghèo bền vững. Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% (năm 2010) xuống 4,25% (năm 2015); trong giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% (đầu năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019), dưới 3% (năm 2020)(4). Qua đó, góp phần giữ vững định hướng XHCN của phát triển kinh tế thị trường.

Thứ hai, tín dụng chính sách xã hội giúp người nghèo, các đối tượng chính sách tiếp cận được tài chính phù hợp, tin cậy, tránh được “tín dụng đen”

Lợi dụng những hoàn cảnh khó khăn của một số hộ, trong xã hội đã xuất hiện “hình thức cho vay tín dụng với lãi suất cao hơn quy định của pháp luật từ các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động cho vay tiền nhưng không đăng ký kinh doanh và không được sự cấp phép của nhà nước”(5). Bi kịch của người có thu nhập thấp, người nghèo, hộ nghèo cũng chính là thị trường béo bở cho các hoạt động tín dụng, nhất là “tín dụng đen”.

Phương thức cho vay kiểu “tín dụng đen” đã gây ra những hệ lụy khôn lường, nhiều người nghèo càng trở nên nghèo hơn. “Vay tín dụng đen sẽ tạo ra những khoản nợ lớn hơn rất nhiều lần so với số tiền vay ban đầu. Điều này sẽ khiến cho người vay không có đủ khả năng chi trả, mất khả năng chi trả khi số nợ quá lớn. Lúc này, người vay tiền tín dụng đen sẽ bị uy hiếp, khủng bố, đe dọa tung hình ảnh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, đánh đập,... Làm ảnh hưởng đến cuộc sống và cả tính mạng của bản thân và những người thân xung quanh”(6). Từ đây gây ra bất ổn xã hội, làm mất an ninh, an toàn trật tự xã hội, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội.

Do vậy, tín dụng chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp những hộ nghèo không mắc vào bẫy “tín dụng đen”. Bởi lẽ, tín dụng chính sách xã hội thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội có tới 19 chương trình(7) cho những người nghèo, đối tượng chính sách vay. Hơn nữa, Ngân hàng Chính sách xã hội có tới 10.442/10.603 điểm giao dịch xã, liên xã, phường, 87 xã, phường, thị trấn giao dịch tại trụ sở Ngân hàng.

Với mạng lưới rộng khắp cả nước và thực hiện ủy thác một số công đoạn trong quy trình cho vay cho bốn tổ chức chính trị - xã hội gồm: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nên các hộ nghèo, hộ cận nghèo, những đối tượng chính sách có cơ hội tiếp nhận dịch vụ của tín dụng chính sách xã hội.

Đồng thời, Ngân hàng Chính sách xã hội đã tổ chức được trên 168 nghìn Tổ Tiết kiệm và Vay vốn đến 100% thôn, ấp, bản, làng, phum, sóc, tổ dân phố,... trên toàn quốc. Tổ Tiết kiệm và Vay vốn là cầu nối giữa ngân hàng với người nghèo, hộ nghèo và các đối tượng chính sách vay vốn, đã góp phần chuyển tải nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến đúng các đối tượng được thụ hưởng kịp thời, tiết giảm chi phí cho người vay. Trên cơ sở đó, người nghèo, hộ nghèo và các đối tượng chính sách có cơ hội thoát khỏi bẫy “tín dụng đen”.

Như vậy, vừa góp phần ổn định, phát triển kinh tế, vừa góp phần ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường.

Thứ ba, tín dụng chính sách xã hội giúp người nghèo, các đối tượng chính sách tiếp cận được tài chính cho việc nâng cao sức sản xuất, tạo sinh kế phát triển bền vững

Theo Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ước đến ngày 31-12-2022 “Tín dụng chính sách xã hội góp phần hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho trên 867 nghìn lao động, trong đó có trên 7 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp trên 62 nghìn lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập, giúp mua gần 87 nghìn máy vi tính, thiết bị học trực tuyến”(8).

Vốn tín dụng chính sách xã hội được đầu tư cho đào tạo nghề, phát triển sản xuất, tạo sinh kế, tạo việc làm cho các đối tượng là thanh niên tập trung chủ yếu vào 6 chương trình tín dụng lớn như: Chương trình tín dụng hộ nghèo; Chương trình tín dụng hộ cận nghèo; Chương trình tín dụng hộ mới thoát nghèo; Chương trình cho vay giải quyết việc làm; Chương trình tín dụng đối với vùng khó khăn và Chương trình tín dụng học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn(9). Qua đây cho thấy, tín dụng chính sách xã hội đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho chính các đối tượng nghèo và chính sách xã hội, giúp cho một số người có cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh, số khác thì học nghề để có thể kiếm việc làm, số nữa thì đi xuất khẩu lao động vừa tăng thu nhập vừa trau dồi tay nghề; học sinh, sinh viên khó khăn được hỗ trợ vay học tập để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Trong giai đoạn 2011-2020, tín dụng chính sách xã hội đã giúp tạo việc làm cho hơn 2 triệu lao động từ Quỹ Quốc gia về việc làm (Quỹ được giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội quản lý và cho vay theo quy định tại Nghị định số: 61/2015/NĐ-CP ngày 09-7-2015 của Thủ tướng Chính phủ) giúp hơn 43 nghìn lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; 1,5 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập. Trong năm 2020, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 361 nghìn lao động, giúp hơn 5,2 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; gần 44,6 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập(10).

Tín dụng chính sách xã hội góp phần giúp những hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện khai thác tiềm năng đất đai; nâng cao chất lượng lao động thông qua các quỹ dạy nghề, chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý để phát triển các sản phẩm truyền thống (sản phẩm OCOP), sản phẩm mới, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người nghèo lao động ở nông thôn, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới tại các địa phương trên cả nước. Trên cơ sở đó, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Thứ tư, tín dụng chính sách xã hội giúp bảo đảm an sinh xã hội, trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường

An sinh xã hội là hệ thống chính sách, chương trình của Nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm giúp đỡ toàn xã hội, nhất là các cá nhân không may mắn, không may gặp rủi ro hoặc biến cố xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ. Hiện nay ở Việt Nam có bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội:

(i) Chính sách bảo đảm việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro trên thị trường lao động thông qua các chính sách đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, tín dụng, tạo việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đơn chiều, đa chiều, bền vững.

(ii) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và khi bị thất nghiệp thông qua các hình thức, cơ chế bảo hiểm xã hội để bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc bị suy giảm.

(iii) Chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và hỗ trợ thường xuyên cho người dân khắc phục các rủi ro khó lường, vượt quá khả năng kiểm soát như mất mùa, đói nghèo.

(iv) Chính sách dịch vụ xã hội cơ bản - trụ cột an sinh xã hội nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu bao gồm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin truyền thông, trợ giúp pháp lý. Trụ cột này thể hiện rất rõ yếu tố “mô hình sàn an sinh xã hội” khi xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay(11).

Tín dụng chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta tham gia vào cả bốn trụ cột chính sách này của hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Đồng thời, để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, Đảng, Nhà nước ta thực hiện “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(12).

Như vậy, phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa tuân theo quy luật thị trường (theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác), vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH (phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội).

Để thực hiện phân phối theo hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội thì Nhà nước phải thông qua các quỹ, các chương trình phát triển, qua Ngân hàng Chính sách xã hội, v.v.. thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Do vậy, tín dụng chính sách xã hội ở Việt Nam giúp bảo đảm an sinh xã hội, trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường.

Thứ năm, tín dụng chính sách xã hội giúp bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN trong phát triển đất nước

Đói nghèo, bệnh tật và bất an xã hội là những nguyên nhân chủ yếu của bất ổn chính trị - xã hội. Do vậy, để bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, các quốc gia cùng với các chính sách khác nhau đều hướng tới mục tiêu tăng cường phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Kết hợp tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là một chủ trương nhất quán của Đảng ta trong quá trình xây dựng CNXH. Bởi lẽ, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”(13).

Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là “không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt trong quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”(14). Thực hiện nhất quán quan điểm, chủ trương này, “Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được phát triển. Giảm nghèo nhanh và bền vững hơn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao”(15).

Với sự nỗ lực, phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó có tín dụng chính sách xã hội, “Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn 5,8% (năm 2016) theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% (năm 2020) theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.

Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. [...] Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020”(16). Chính nhờ những thành tích này mà Việt Nam vừa giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa giữ vững được ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở này giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường./.

GS. TS. TRẦN VĂN PHÒNG Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(1), (12), (13) (16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.26-27, 26, 21, 31-32.

(2), (8) Quang Lộc: Chính sách giảm nghèo ở Việt Nam: Những con số nhiều ý nghĩa, https://congthuong.vn/, ngày 13-02-2023.

(3) Trần Minh Hiếu, Phạm Thanh An: Tín dụng chính sách xã hội góp phần giảm nghèo bền vững và thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam, https://tapchinganhang.gov.vn/, ngày 28-7-2021.

(4), (10) Tập trung nguồn lực nhà nước thực hiện tốt tín dụng chính sách xã hội, góp phần triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, https://tapchimattran.vn/, ngày 24-4-2021.

(5) Thư viện pháp luật: Tín dụng đen là gì? Người hoạt động tín dụng đen bị xử lý thế nào?, https://thuvienphapluat.vn/, ngày 28-9-2022.

(6) Luật Dương Gia: Tác hại, hậu quả và phải làm gì khi bị mắc bẫy tín dụng đen?, https://luatduonggia.vn/, ngày 18-8-2022.

(7) 19 chương trình gồm: Chương trình cho vay hộ nghèo; Chương trình cho vay hộ cận nghèo; Chương trình cho vay hộ mới thoát nghèo; Chương trình cho vay học sinh, sinh viên; Chương trình cho vay đối tượng chính sách đi lao động nước ngoài; Chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; Chương trình cho vay thương nhân vùng khó khăn; Chương trình cho vay mua nhà trả chậm đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên; Chương trình cho vay hộ nghèo làm nhà ở; Chương trình cho vay hộ nghèo làm nhà ở tránh lũ; Chương trình cho vay hộ gia đình có người HIV, sau cai nghiện; Chương trình cho vay hỗ trợ đất sản xuất, chuyển đổi ngành nghề; Chương trình cho vay hỗ trợ trồng rừng, phát triển chăn nuôi; Chương trình cho vay hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; Chương trình cho vay hộ dân tộc thiểu số vùng đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình cho vay hỗ trợ đất sản xuất, chuyển đổi ngành nghề; Chương trình cho vay xuất khẩu lao động tại huyện nghèo; Các chương trình dự án vốn nước ngoài.

(9) Nhật Dương: Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách, https://en.vneconomy.vn/, ngày 10-5-2023.

(11) Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Ngọc Anh: Chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra, http://www.lyluanchinhtri.vn/, ngày 21-11-2017.

(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996; tr.31.

(15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.102.

Tuân Tức là xã nông thôn mới của huyện Thạnh Trị và cũng là xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đồng chí Liêu Sơn Nhì - Bí thư Đảng ủy xã Tuân Tức cho biết: “Đa số người dân sống bằng nghề nông nghiệp. Thời gian qua, các vấn đề cơ bản nhất đối với hộ nghèo về nhà ở, đất sản xuất, khám, chữa bệnh, học tập... và các chính sách về an sinh xã hội khác đã được giải quyết kịp thời, đúng đối tượng, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Các chính sách giảm nghèo đã giúp người nghèo có việc làm, phát triển sản xuất, tạo thu nhập ổn định để cải thiện điều kiện sống và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn”.

Là một trong những hộ được Phòng Giao dịch NHCSXH huyện Thạnh Trị cho vay vốn từ Chương trình cho vay hộ mới thoát nghèo, bà Nguyễn Kim Huê, ở ấp Trung Thống, xã Tuân Tức phấn khởi cho biết: “Gia đình tôi là hộ mới thoát nghèo nên đời sống cũng còn khá khó khăn, thiếu vốn trong chăn nuôi nên vừa qua, được Phòng Giao dịch NHCSXH huyện cho vay 70 triệu đồng để phát triển sản xuất. Có vốn trong tay, gia đình tôi đầu tư chăn nuôi bò và cố gắng làm ăn để thoát nghèo bền vững”.

Cũng được vay vốn ưu đãi từ Phòng Giao dịch NHCSXH huyện, ông Lâm Thái Phong, ngụ ấp Trung Hòa bộc bạch: “Trước đây, cuộc sống gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn nên được Phòng Giao dịch NHCSXH huyện cho vay 40 triệu đồng từ Chương trình cho vay vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cùng với số vốn của gia đình nên tôi mới cất được căn nhà khá kiên cố để an cư lạc nghiệp. Mới đây, gia đình tôi tiếp tục được vay 20 triệu đồng từ chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn để đầu tư xây dựng các công trình đúng theo tiêu chuẩn. Giờ đây khi nhà cửa đã ổn định, gia đình tôi sẽ chí thú làm ăn, vượt qua khó khăn”.

Thời gian qua, việc triển khai hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách đến với hộ nghèo và các đối tượng chính sách trên địa bàn huyện Thạnh Trị đã làm thay đổi căn bản nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số, từ việc không dám vay vốn, nay đã mạnh dạn vay vốn và mở rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả. Theo đồng chí Lâm Ngọc Lợi - Giám đốc Phòng Giao dịch NHCSXH huyện Thạnh Trị, tính đến hết tháng 9/2024, tổng doanh số cho vay các chương trình tín dụng trên địa bàn huyện đạt trên 349,5 tỷ đồng, với hơn 7 nghìn lượt khách hàng vay vốn; tổng dư nợ đạt hơn 587,5 tỷ đồng. Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần tạo việc làm cho hơn 1.500 lao động nông thôn; hỗ trợ chi phí cho 21 lao động đi lao động nước ngoài; xây dựng trên 2.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường, góp phần nâng cao đời sống sinh hoạt, sức khỏe cho người dân; xây dựng trên 60 căn nhà cho hộ nghèo... Các chương trình tín dụng chính sách còn giúp người dân tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa... góp phần nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân.

“Để bảo đảm nguồn vốn đến đúng đối tượng, Phòng Giao dịch NHCSXH huyện đã phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện nghiêm túc việc giao dịch tại xã theo lịch cố định. Tại mỗi điểm giao dịch đều có hộp thư góp ý để người dân đến giao dịch phản ánh kịp thời những vướng mắc về thủ tục và thái độ của cán bộ tín dụng chính sách. Qua đó, đã giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ thuận lợi, tiết giảm chi phí, thực hiện quy chế dân chủ, công khai và tăng cường sự giám sát của chính quyền địa phương trong việc thực hiện tín dụng chính sách. Các tổ chức chính trị - xã hội đã thường xuyên tăng cường kiểm soát, giám sát hiệu quả sử dụng vốn vay và thanh toán nợ, lãi đúng thời hạn; không để xảy ra tình trạng chiếm dụng vốn, nợ đọng vốn vay, ngăn ngừa tiêu cực, góp phần hạn chế “tín dụng đen” ở nông thôn”, đồng chí Lâm Ngọc Lợi cho biết thêm.

Với những giải pháp tích cực, hiệu quả, Phòng Giao dịch NHCSXH huyện Thạnh Trị đã thực hiện tốt các chương trình cho vay theo quy định, bảo đảm phát huy hiệu quả nguồn vốn vay ở địa phương. Đồng chí Lê Thanh Chúc - Chủ tịch UBND huyện, Trưởng Ban đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH huyện Thạnh Trị nhận xét: “Thời gian qua, nguồn vốn tín dụng chính sách đã phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống và có tác động mạnh mẽ, tích cực, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 8,92% (năm 2021) xuống 1,87% (năm 2023). Để đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững, huyện Thạnh Trị mong muốn thời gian tới, NHCSXH Việt Nam tiếp tục quan tâm, triển khai các chương trình tín dụng cho nhân dân trên địa bàn huyện”.